Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2012

Lương giáo viên: Không phải tăng mà cải tiến

Lương giáo viên: Không phải tăng mà cải tiến


- Tăng lương chỉ là một phần nhỏ để tạo sự khác biệt về lương cho giáo viên (GV), nhưng nó sẽ không giải quyết triệt để các vấn đề tiêu cực nảy sinh do lương, cũng không tạo động lực triệt để khuyến khích GV dạy tốt. Cải tiến chế độ tiền lương có tác dụng tạo động lực thúc đẩy GV làm tốt công tác dạy học vì nó đòi hỏi sự đồng bộ cả về chính sách, cơ chế lẫn trách nhiệm của cả hệ thống giáo dục đối với chất lượng giáo dục Việt Nam.

Trong ảnh: Một tiết học của cô trò Trường TH Thái Thịnh, quận Đống Đa, Hà Nội.

(Ảnh: Văn Chung)

Việc cải tiến chế độ lương để có thể tạo động lực nâng cao chất lượng giáo dục cần giải quyết các vấn đề sau:

1) Mặt bằng lương đảm bảo cho GV có thể nuôi sống được bản thân + ít nhất 1 đứa con + phát triển chuyên môn nghề nghiệp.

Đây là tiêu chuẩn dành cho giáo viên VN, chưa dựa trên những tính toán thực tế về tài chính dành cho GD và tình trạng tài chính chung của quốc gia.

Còn ở các nước, lương GV đủ để nuôi sống cả gia đình, thỏa mãn cuộc sống tinh thần và tích lũy được để tiết kiệm cho việc mua sắm và phòng thân.

Ở Việt Nam, nếu rà soát lại cách sử dụng ngân sách cho GD và rà soát lại ngân quĩ quốc gia thì có lẽ lượng tiền không chỉ đủ để đáp ứng lương cho GV nói riêng theo cách trả lương của quố tế mà còn đủ cho cán bộ hành chính và các ngành hưởng phúc lợi nói chung.

2) Khi đã có mặt bằng lương như vậy thì cần có chế tài kèm theo: Ai còn đi dạy thêm thì xử lí kỉ luật, đuổi việc nếu tiếp tục vi phạm.

3) Bộ GD- ĐT cần cải tiến việc đánh giá, thi cử và xây dựng văn hóa chất lượng. Nếu tiếp tục giữ chế độ thi cử, kiểm tra đánh giá và xem nhẹ chất lượng GD như hiện nay (qua thành tích thi tốt nghiệp phổ thông và năng lực thật của HS phổ thông và SV đại học; ở cấp học cao hơn sau đại học như thạc sĩ hay tiến sĩ thì HV vừa học, vừa làm, ít có thời gian để học nghiêm túc, giảng viên nào đòi hỏi cao là bị kêu, học để lấy bằng, luận văn, luận án thì sao chép, ít nghiên cứu cập nhật thông tin mới nhưng vẫn bảo vệ loại giỏi và xuất sắc… Nhiều GS.PGS nhưng không có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu quốc tế) thì các trường học và GV cũng sẽ tiếp tục không coi trọng chất lượng thực tế của HS mà chỉ nhăm nhăm dạy thế nào để HS làm tốt các bài thi trắc nghiệm, chỉ tập trung vào kì thi cuối cấp hay thi vào đại học hơn là phát triển năng lực của mỗi học sinh. Ở cấp học cao hơn thì bảo vệ kiểu gì cũng qua nên luận văn hay luận án chẳng cần làm theo những hướng nghiên cứu mới hay có cái mới.

Cần xây dựng văn hóa coi trọng chất lượng giáo dục với các việc làm cụ thể sau:

a) Xây dựng lòng tự trọng của GV và trách nhiệm của họ đối với chất lượng GD (qui chuẩn văn hóa chất lượng GD);

b) Xây dựng và thực hiện các chính sách khuyến khích nâng cao chất lượng GD; c) Xây dựng chuẩn công dân thế kỉ 21 của Việt Nam đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường và kinh tế tri thức của VN và đánh giá chất lượng dựa trên các chuẩn này;

d) Xây dựng một nền GD dựa trên các thành tựu và kết quả nghiên cứu khoa học. Điều này khuyến khích GV nghiên cứu khoa học;

e) Sử dụng trí tuệ của các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn giàu kinh nghiệm trong quá trình hoạch định các chính sách, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển giáo dục;

g) Thay đổi cơ chế cấp ngân sách nghiên cứu khoa học để khuyến khích GV nghiên cứu khoa học nâng cao chất lượng giảng dạy và tạo kiến thức, sản phẩm mới cho nền GD;

f) Xây dựng năng lực phê phán và tiếp nhận các phê phán về những yếu kém của hệ thống GD.

4) Xây dựng và thực hiện các chính sách khuyến khích nâng cao chất lượng GD: việc tăng lương cần dựa trên thành tích giảng dạy và nghiên cứu khoa học theo các thang bậc:

Ở phổ thông:

a) Có sự khác biệt giữa lương của GV có HS tham gia các kì thi HS giỏi quốc tế, quốc gia, thành phố/tỉnh...

b) Khác biệt giữa chất lượng học tập của HS được đo bằng các kĩ năng yêu cầu đối với HS- công dân thế kỉ 21 (chứ không phải bằng điểm số vì điểm số rất dễ thay đổi và còn gây ra các hiện tượng tiêu cực);

c) Có thành tích giảm số lượng HS yếu kém;

d) Tạo điều kiện để HS khuyết tật hòa nhập và phát triển năng lực của bản thân;

e) Có nhiều sáng kiến trong dạy học;

d) Sử dụng thành thạo ICT trong dạy học.

Ở đại học: Có sự khác biệt về lương giữa:

a) Giảng viên có thành tích nghiên cứu trong khoa học về số bài đăng tạp chí quốctế, sách xuất bản bằng tiếng Anh;

b) Thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học: chủ nhiệm các đề tài, dự án quốc tế và trong nước;

c) Sự khác biệt giữa GV có các hợp tác quốc tế về nghiên cứu và giảng dạy;

d) Thành tích hướng dẫn học viên các đề tài có tính mới, có tác dụng ứng dụng thực tiễn…

5) Đổi mới cơ chế tuyển chọn và sử dụng GV ở tất cả các cấp học: thực hiện chế độ hợp đồng GV và bảo hiểm xã hội thay cho biên chế vĩnh cửu. Kèm theo đó là qui định các điều kiện làm việc tạo điều kiện cho GV phát huy năng lực, sở trường của bản thân. Cho phép GV lựa chọn nơi làm việc phù hợp với năng lực của mình, nghĩa là khi NT không đáp ứng nhu cầu làm việc thì GV có thể ra đi mà không bị níu kéo lại hay gây khó khăn, phiền.hà, sách nhiễu.

6) Xử phạt các hiện tượng tham nhũng và hối lộ trong GD để tránh việc chạy việc hay dễ dàng có được điểm cao, có chức danh, lấy được bằng cấp…Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến chất lượng đào tạo thấp.

•TS Giáo dục Trần Thị Bích Liễu (chương trình Fulbright)

Lương giáo viên đâu chỉ là chuyện thu nhập

Giáo dục 10/10/2012 01:15


Chia sẻ .Lương giáo viên đâu chỉ là chuyện thu nhập
Gần đây, khi ngành giáo dục có những động thái mới trong việc nâng cao thu nhập cho giáo viên như chế độ phụ cấp thâm niên và tiến tới giúp người giáo viên sống được bằng lương, tôi có một vài ý kiến.

Lương thầy - niềm tin của trò

Chọn nghề giáo, đồng nghĩa với việc bạn chấp nhận một vị trí khiêm tốn trong bảng giá trị về thu nhập và tầm ảnh hưởng với cộng đồng.


Trong ảnh: một tiết học của cô trò Trường Tiểu học Vĩnh Ngọc (xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ảnh: Văn Chung

Chẳng cần phải tham khảo lý luận cao siêu hay tham quan các nước bạn thì nhiều người cũng hiểu giáo dục chính là nghề “mẹ” sinh nở ra nguồn cán bộ cho các lĩnh vực khác nhau. Bởi căn nguyên ấy mà người ta hay nói đến chữ “luỵ” với giáo dục như thể lối đi độc đạo mà ai cũng phải qua, ông thầy là nhân vật tất yếu mà ai cũng phải gặp.

Thế nhưng, có điều không mấy ai nghĩ đến là khi còn ngồi ghế nhà trường – thời điểm tích luỹ kiến thức và lựa chọn quan niệm sống – người học trò đã nhìn vào cuộc sống của người thầy như một tấm gương phản ánh cả điều hay, điều dở.

Đâu phải học sinh, sinh viên chỉ nghe điều thầy giảng, các em sẽ còn nghĩ xem thầy kiếm được bao nhiêu tiền để trang trải cuộc sống, tiếng nói và tầm ảnh hưởng của thầy trong xã hội là như thế nào.

Vào những năm cuối của thời kì bao cấp, khi đó rất nhiều học sinh hết phổ thông đã chọn con đường làm ăn kinh tế tự do thay vì thi vào trường chuyên nghiệp.

Một phần vì ngày đó đồng lương giáo viên vừa ít, vừa chậm, ngay bản thân nhiều thầy cô cũng phải tạm gác giáo án để lăn lộn mưu sinh hoặc không còn mặn mà với công việc giảng dạy.

Tuy nhiên, ở thời điểm đó quan niệm về lập nghiệp và hình tượng người thầy còn gắn liền với biểu tượng trường ốc chứ chưa thật sự được đặt vào bảng giá trị, người giáo viên chưa bị đặt trước những thách thức mưu sinh và cám dỗ của đồng tiền như ngày nay.

Một khoản thu nhập đảm bảo cuộc sống sẽ giúp các thầy cô toàn tâm và trọn tình với chuyên môn. Nhưng không chỉ có vậy, nó còn giúp các cô bé, cậu bé cũng như toàn xã hội có một cái nhìn khác về giáo dục. Những học trò giỏi sẽ sẵn sàng nối gót thày làm nghề giáo cho thoả sở nguyện của mình mà không phải cấn cá chuyện lương bổng.

Trách nhiệm từ đồng lương

Nếu có một khoản thu nhập xứng đáng với tài năng và đóng góp của mình, người giáo viên sẽ có trách nhiệm hơn.

Khi nghe điều này, hẳn nhiều người sẽ cho rằng họ làm việc theo thước đo của đồng tiền chăng?

Xin thưa rằng: trước khi được gọi là một nghề cao quý, trước tiên giảng dạy phải là một lao động (như mọi lao động khác) cần được trả lương xứng đáng theo chất lượng sản phẩm.

Sản phẩm mà họ tạo ra tuy không gắn tem bảo hành nhưng lại là nhân tố quan trọng nhất trong xã hội - nhân tố con người.

Thật đáng buồn khi nhiều người vẫn mang một quan niệm cũ về người thầy là cứ phải thanh đạm. Như thế, vô hình chung chúng ta đã mắc nợ quá nhiều ở sự tâm huyết của những người thày còn nghèo khó.

Thiết nghĩ khi nhà nước và ngành giáo dục đã và đang có những chính sách mới quan tâm đến người giáo viên thì mọi thành viên trong xã hội cũng cần góp một bàn tay lo toan cho cuộc sống của những người thầy.

Học mười dạy một, con đường để trở thành nhà giáo chưa bao giờ là dễ dàng cả. Đến khi đi dạy, muốn truyền ngọn lửa tri thức cho thế hệ sau các thầy cô lại gặp phải những rào cản cơm áo.

Có lẽ, chỉ khi nào các thầy cô có được một thu nhập đủ để trang trải cuộc sống và đầu tư cho chuyên môn thì bản thân họ sẽ có trách nhiệm với đồng lương đó. Ấy cũng là trách nhiệm đưa đò chở những ước mơ cập bến bờ tri thức để làm người từ những đồng tiền mồ hôi, nước mắt của toàn xã hội. Một trách nhiệm cao quý.

Nhà giáo Lương Việt (Hòa Bình)


Tăng lương 10 triệu vẫn dạy thêm?

Tăng lương 10 triệu vẫn dạy thêm?

Giáo dục 7/10/2012 06:32


Chia sẻ .Tăng lương 10 triệu vẫn dạy thêm?

Rất nhiều độc giả nhất trí với quan điểm của bà Nguyễn Thị Bình về việc tập trung tăng lương cho giáo viên và coi đây là một giải pháp chủ chốt giúp giáo viên gắn bó với nghề, tăng chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, vẫn có quan điểm cho rằng lương giáo viên hiện nay không thấp, và nếu có tăng thì cũng không thể giải quyết được các vấn đề hiện tại của giáo dục.

Các ý kiến cho rằng nghề giáo là một nghề vất vả, áp lực cao, đòi hỏi phải lao động ngoài giờ lên lớp nhiều… cho nên việc tăng lương để đảm bảo cuộc sống cho giáo viên là hoàn toàn hợp lý và cấp bách. “Giáo viên là nghề vất vả nhất trong khối hành chính, sự nghiệp. Nghề này phải làm việc thực sự, vì đối tượng lao động của giáo viên là học sinh, họ là những người có nhu cầu học tập thực sự. Giáo viên làm việc giảng dạy không tốt thì sẽ không được chấp nhận. Tôi cũng là công chức nhà nước, nhưng không là giáo viên. Tôi thấy cần tăng lương cho giáo viên cao nhất trong khối hành chính sự nghiệp là hợp lý” – độc giả Trần Văn Sơn chia sẻ ý kiến.

Cô giáo Khánh Linh tâm sự về những khó khăn, vất vả của bản thân khi theo nghề giáo. Ra trường đã được 16 năm, nhưng lương hiện tại của cô chỉ được gần 4 triệu đồng, phụ cấp thâm niên tháng 9 năm nay mới nhận được. Cô không thể dạy thêm vì môn cô dạy chỉ là môn phụ, cuộc sống quá khó khăn nên ngoài giờ lên lớp hầu như cô và các đồng nghiệp đều phải kiếm một nghề tay trái, người thì bán phở, người thì bán giày dép, người thì dạy bơi.....

Nhiều thầy cô giáo khác cũng đồng cảm với hoàn cảnh này: “Hàng ngày tôi đi ra khỏi nhà đến trường từ lúc 7 giờ sáng và làm việc đến 17 giờ chiều mới về, kể cả buổi trưa cũng không nghỉ vì còn phải chấm bài và trông học sinh ngủ trưa. Vậy mà lương của tôi cũng mới chỉ ở mức 4 triệu 7 trăm nghìn đồng. Trong khi đó tôi phải nhờ một bác giúp việc trông con (vì con tôi còn quá bé, chưa được 1 tuổi) và trả lương 3 triệu đồng/ tháng, chưa kể cơm ăn áo mặc” – độc giả Hồng Hạnh tâm sự.

Bên cạnh những hi vọng về một cuộc sống khấm khá hơn, một số giáo viên lại tỏ ra bi quan trước ý kiến lương giáo viên phải cao nhất trong các ngành sự nghiệp bởi phụ cấp thâm niên từ năm ngoái họ vẫn chưa nhận được, nói gì đến “giấc mơ” tăng lương. Độc giả Trung Quân cho biết chỉ mong được giải quyết các chế độ theo đúng quy định là đã mãn nguyện lắm rồi!

Lương giáo viên không thấp

Cá biệt, có một số ý kiến cho rằng lương giáo viên hiện nay không thấp so với mặt bằng xã hội nên không thể đổ lỗi cho lương thấp làm ảnh hưởng đến đạo đức của học sinh.
Lập luận được đưa ra là: “Vì trong 1 tuần, các thầy cô giáo chỉ cần dạy 8 tiết là đủ ăn lương cơ bản và phụ cấp 30% rồi. Như vậy trong 1 tuần, giáo viên chỉ cần làm 8 giờ, tương đương với 1 công hay 1 ca, trong khi các lao động khác phải làm ít nhất 40 giờ, tương đưong với 5 công/ tuần. Mặc khác, người làm giáo dục, đa số thi đầu vào các trường sư phạm nói chung, có số điểm thấp, không khó như các ngành kỹ thuật khác, thậm chí có trường trung cấp, cao đẳng sư phạm còn chọn nguyện vọng 3 cho ngành này, khỏi cần thi tuyển. Cho nên, chẳng cần phải tăng lương nữa!”
Đồng tình với quan điểm này, một độc giả nhận xét: “Tôi thấy với giáo viên hiện nay thu nhập cũng không hẳn là thấp. Thực tế cho thấy nhiều khi GV đại học tính ra cả tháng đứng giảng bài vào khoảng 1 tuần (tính theo giờ làm việc 8h/ngày), lương phụ cấp cũng đc khoảng 6 triệu/ tháng, như thế không phải đã là quá cao. Vẫn biết còn phải soạn giáo án chấm bài, nhưng những cái đó không mất nhiều thời gian, vả lại giáo án của năm nay sang năm lại dùng được (đương nhiên là cũng phải thay đổi một chút). Đấy là còn chưa kể được nghỉ 3 tháng hè mà vẫn có lương. Thử hỏi có ngành nào được như thế? Còn việc dạy thêm thì nếu có tăng lương người ta vẫn đi dạy thôi, chả cấm đoán được hết”.

Tăng lương không giải quyết triệt để

Nhiều ý kiến cho rằng tăng lương chỉ là một trong số những giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, chứ không phải là giải pháp quyết định.

Độc giả Nguyễn Tuấn nói: “Nếu cứ trả lương cao rồi chất lượng giáo viên bỏ ngỏ, cả năm giáo viên không đọc thêm sách vở cập nhập kiến thức, suốt ngày tua đi tua lại mấy cái giáo án cũ rích viết trước đó hàng chục năm thì chất lượng giáo dục vẫn thế thôi!”
Anh Quốc Khánh đưa ra một thực tế, đa phần giáo viên hiện nay đi học không vì mục đích nâng cao trình độ, mà vì bằng cấp nhằm tăng lương. “Hơn nữa, chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chưa tốt.Tôi có cô em là giáo viên tiểu học, được nhà trường cử đi học đại học. Học thì tập trung vào các kì nghỉ hè. Chương trình học thì chả mấy liên quan đến chuyên môn tiểu học: nào là toán xác xuất thống kê, văn học ....chiếm đa số. Còn các môn học nâng cao chuyên môn hiện tại thì bị xem nhẹ” – độc giả này trăn trở.

Một độc giả đưa giải pháp tăng lương phải được tiến hành song song với việc kiểm soát dạy thêm, học thêm. “Hầu hết giáo viên hiện nay chỉ đi dạy cho có, chủ yếu là bắt học trò đi học thêm, trên lớp thì dạy qua loa, đi học thêm thì dạy "tủ" chứ không quan tâm đến việc dạy học nghiêm túc. Nếu tăng cao lương giáo viên thì phải có biện pháp giải quyết dứt điểm chuyện dạy thêm trước đã”.

“Theo mình cứ tăng 100% lương cho giáo viên dạy giỏi, 70% cho GV loại khá và 50% cho giáo viên trung bình. Những giáo viên kém cho quản lý thư viện hoăc các công việc khác và hưởng nguyên lương. Có như vậy mới khuyến khích các thầy cô phấn đấu dạy tốt. Song hành nên cấm dạy thêm, nếu phát hiện cho nghỉ dạy thì các thầy cô sợ mất việc mà không dám dạy thêm nữa. Phải mạnh tay thì mới chấm dứt được tình trạng mà luôn là thời sự nóng hổi đối với cha mẹ học sinh” – chị Hồ Thị Châu hiến kế.

Nhiều độc giả lại cho rằng vấn đề quan trọng của giáo viên bây giờ là ra trường liệu có được đi dạy hay không. Do tình trạng hối lộ, tham nhũng, những sinh viên không có tiền “lót tay” buộc phải chuyển sang làm nghề khác, chứ chưa nói đến việc lương cao hay thấp.

Trái với đa số đồng tình tăng lương giáo viên, một số ý kiến cho rằng chỉ nên tăng lương cho các giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, nông thôn… vì ở những thành phố lớn, tình trạng dạy thêm tràn lan giúp các giáo viên không chỉ không nghèo mà còn có thu nhập “khủng”.

“Giáo viên dạy thêm 40.000 đồng/ cháu / 1 môn/ 1 buổi. Một lớp có 52 cháu mà một tuần 2 buổi . Đó chưa kể có những môn 200.000đ/ 1 buổi/1 cháu (1 tuần 2 buổi) thử hỏi mỗi tháng thu nhập của giáo viên là bao nhiêu mà kêu lương phải cao nhất” – một độc giả gay gắt. Trước thực tế lương có tăng đến mức nào cũng không thể bằng dạy thêm, anh Lê Phương Hải cho rằng: “Nếu lương tăng lên 10 triệu tôi tin là giáo viên họ vẫn dạy thêm vì nhiều lý do, có cả từ giáo viên và có cả từ phụ huynh”.
Theo Vietnamnet
•Nguyễn Thảo (Tổng hợp)

Học sinh giỏi chưa mê ngành sư phạm

Học sinh giỏi chưa mê ngành sư phạm


Ngành sư phạm đang đứng trước nguy cơ sụt giảm chất lượng vì ngày càng ít thí sinh giỏi dự thi. Đây là thực trạng báo động cho chất lượng giáo dục trong tương lai, bởi thiếu thầy giỏi thì khó lòng đào tạo ra những trò giỏi.

“Chuột chạy cùng sào” vẫn không vào sư phạm !



GS Đinh Quang Báo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu ĐH Sư phạm Hà Nội, chua chát nói: “Vài ba năm nay thì tuyển sinh vào ngành sư phạm (SP) còn nặng nề hơn cả câu "chuột chạy cùng sào", nghĩa là đã phải tuyển nhóm "cùng sào" rồi mà cũng không đủ. Nếu cứ tiếp tục thế này sẽ là một vấn đề báo động cho chất lượng giáo dục phổ thông. Anh muốn nâng cao chất lượng nền giáo dục mà chất lượng đội ngũ giảng dạy không được cải thiện thì chỉ là nói suông”.

Tháng 3.2012, tiến sĩ Nguyễn Thúy Quỳnh Loan, Phó trưởng khoa Quản lý công nghiệp Trường ĐH Bách khoa TP.HCM, cùng cộng sự công bố nghiên cứu về xu hướng chọn ngành thi ĐH của thí sinh tại TP.HCM giai đoạn 2006 - 2010. Kết quả cho thấy nhóm ngành kinh tế, quản lý, tài chính luôn có lượng đăng ký rất cao. Trong khi đó, số lượng thí sinh đăng ký dự thi ngành SP - quản lý giáo dục ngày càng giảm, nhất là các ngành: tiếng Pháp, Nga, năng khiếu, âm nhạc…

Năm 1998, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM có hơn 22.000 thí sinh dự thi, đến năm 1999 có gần 30.000 và năm 2000 có đến hơn 40.000. Thế nhưng, trong 3 năm trở lại đây, lượng thí sinh thi vào trường khoảng từ 15.000 đến hơn 17.000. Số lượng thí sinh thi vào ngành SP ở các trường địa phương năm nay rất thấp. Tại ĐH Cần Thơ, ngành SP tiếng Pháp có 20 thí sinh, trong khi chỉ tiêu của ngành là 40… Đến nay, nhiều trường đã phải tuyên bố đóng cửa ngành SP vì không đủ sinh viên để mở ngành. Trường ĐH Quảng Nam tạm dừng tuyển sinh ngành SP mỹ thuật (bậc CĐ), Trường ĐH An Giang tạm dừng tuyển sinh ngành SP sinh học và SP tin học…
Mùa tuyển sinh năm 2012, lãnh đạo Sở GD-ĐT Thanh Hóa đã nhận định thí sinh của tỉnh này dự thi vào SP thấp kỷ lục. Trong tổng số gần 80.000 hồ sơ thí sinh dự thi vào các trường, chỉ có hơn 386 vào ĐH SP Hà Nội, 29 vào SP Huế, 41 vào ĐH SP Hà Nội 2; 392 vào CĐ Sư phạm T.Ư. Ở Phú Thọ, số lượng cũng giảm đáng kể: 425 vào ĐH SP Hà Nội, 349 vào ĐH SP Hà Nội 2…

Những năm gần đây, các trường sư phạm không còn là điểm nóng tuyển sinh như trước đây - Ảnh: Đào Ngọc Thạch


Điểm chuẩn cũng thấp dần

Trong những năm khoảng từ 1999 đến 2003, SP là một trong ít ngành có điểm chuẩn cao thời bấy giờ. Chẳng hạn tại Trường ĐH SP TP.HCM, năm 1999 ngành SP toán lấy 20 điểm, năm 2000 là 31 (môn toán hệ số 2), vào năm 2002 lấy 22 và năm 2004 là 24. Khoảng thời gian này, thí sinh nào trúng tuyển vào SP được coi là danh giá và được bạn bè ngưỡng mộ…

Đông đảo thí sinh chọn ngành SP trong giai đoạn này vì học phí cho tất cả học sinh, sinh viên ngành SP được miễn. Thạc sĩ Mỵ Giang Sơn, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Sài Gòn (lúc bấy giờ còn là CĐ Sư phạm TP.HCM), cho biết: “Thời điểm đó kinh tế khó khăn, việc học SP không phải đóng học phí, ra trường lại được bố trí việc làm ngay khiến phụ huynh và thí sinh rất mê. Chỉ những học sinh giỏi mới có khả năng trúng tuyển. Khá chưa chắc đã đậu”.

GS Đinh Quang Báo cho rằng thời kỳ hoàng kim trong tuyển sinh Trường ĐH SP Hà Nội là từ 1997 - 2003, hồi ấy phải đạt 27 điểm/3 môn mới đỗ vào khoa toán, 24 - 25 điểm vào khoa văn, các khoa khác cũng phải 22 điểm, tỷ lệ là 7 - 8 thí sinh “chọi” 1, thậm chí mười mấy chọi 1. Sau năm 2003, chất lượng đầu vào trường SP đuối dần nhưng vẫn còn học sinh giỏi để tuyển, chỉ có điều những thí sinh xuất sắc nhất (đoạt giải quốc gia, quốc tế) thì không vào SP nữa.

Thế nhưng vài năm trở lại đây, điểm chuẩn những trường ĐH có đào tạo ngành SP thường khá thấp.
Ba năm gần đây, điểm chuẩn nhiều ngành tại trường ĐH SP TP.HCM chỉ ngang điểm sàn (khoảng 13 - 14 điểm) như: SP giáo dục chính trị, SP sử - giáo dục quốc phòng, SP giáo dục đặc biệt… Nhiều ngành như: SP tin học, SP tiếng Pháp phải xét tuyển. Đa số ngành SP ở các trường ĐH An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp cũng chỉ tương đương điểm sàn. Tại Trường ĐH Sài Gòn, các ngành SP cơ bản như: toán, lý, văn, sử… cũng có điểm chuẩn thấp so với các ngành khác, dao động từ 16 - 17,5 điểm.

Năm nay, ngành SP tiếng Pháp của ĐH Cần Thơ chỉ có 12/20 thí sinh dự thi đạt điểm từ 13 trở lên. Ngành SP ngữ văn của Trường ĐH Trà Vinh có 24/105 đạt 13 điểm. Đặc biệt, ngành SP toán Trường ĐH Đồng Tháp chỉ có 10 thí sinh đạt từ 13 điểm trở lên ở 2 khối A và A1, ngành SP tin học có 13 thí sinh và điểm cao nhất chỉ 11 điểm, SP vật lý có 27 thí sinh nhưng chỉ 1 đạt 14,5 điểm…

Tiến sĩ Bạch Văn Hợp, Hiệu trưởng Trường ĐH SP TP.HCM, thừa nhận: “Đúng là thí sinh giỏi ngày nay không chọn học SP. Thực tế, nhiều em đạt điểm cao ở trường (từ 27 điểm trở lên) nếu đỗ thêm một trường khác nữa thì họ sẵn sàng chọn học trường đó. Những năm trở lại đây, chính vì SP không còn sức hút nên các trường SP phải đào tạo thêm nhiều ngành ngoài SP để tuyển dễ hơn”.

Thấy mà buồn !

Những năm gần đây, không nhiều học sinh các trường THPT trên địa bàn TP.HCM chọn thi SP. Ông Trần Phước Đức, Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Trãi (Q.4), cho biết: “Trong năm học vừa qua, trường có 500 học sinh lớp 12 nhưng số lượng đăng ký thi ngành SP chiếm chưa đến 1%”. Tương tự, theo lãnh đạo Trường THPT Nguyễn Khuyến (Q.10) năm vừa rồi, lượng HS chọn thi SP cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ông Đức cho rằng: “Những năm 1990, điểm chuẩn của ngành SP rất cao, các ngành khối A không thua các ngành thuộc Trường ĐH Bách khoa. Những năm gần đây, điểm đầu vào các trường SP giảm sút đáng kể, thấy mà buồn”.
Minh Luân
Học sinh giỏi chưa mê ngành sư phạm - Kỳ 2: Còi cọc đồng lương, bấp bênh việc làm
bênh việc làm


09/10/2012 3:20

Theo nhiều giáo viên, lương không đủ sống là lý do chính khiến nhiều người không chọn sư phạm làm nghề nghiệp. Đó là chưa kể sinh viên ngành này ra trường gặp rất nhiều khó khăn trên con đường tìm việc.
Sinh viên ngành giáo dục tâm lý Trường ĐH SP TP.HCM trong giờ thuyết trình - Ảnh: Đào Ngọc Thạch

29 năm, lương 4,8 triệu đồng

PGS Vũ Trọng Rỹ, Viện Khoa học giáo dục, chỉ rõ: “Để tình trạng không có người giỏi vào sư phạm (SP) như hiện nay đơn giản vì chế độ chính sách đãi ngộ với họ chưa thỏa đáng, không tốt. Nghề không nuôi sống được bản thân, gia đình”.
Tôi đã hỏi hơn 500 GV ở 3 cấp với câu hỏi: Nếu được chọn lại nghề khác thì ông (bà) có chọn nghề dạy học nữa không? Kết quả là số GV không còn muốn làm nghề giáo ở cấp tiểu học là 40,9%, THCS là 59%, và THPT là 52,4%. Thế là có ít nhất một nửa GV hiện nay không muốn làm nghề dạy học nữa
PGS Vũ Trọng Rỹ, Viện Khoa học giáo dục


Một giáo viên (GV) tâm sự đầy chua chát: “Tôi không dám so lương thấp với ai. Tôi chỉ thấy trước hết là thấp so với cái người ta cần để tồn tại chứ chưa nói đến chuyện để sống sung sướng. Trước tháng 5.2012 (lương tối thiểu lên 1,05 triệu đồng), khi lương tối thiểu là 850.000 đồng, sinh viên giỏi trường SP được giữ lại làm cán bộ giảng dạy chỉ được khoảng 1,4 triệu đồng/tháng, khi hết tập sự thì khoảng 2 triệu đồng/tháng”.
Một GV có thâm niên gần 30 năm trong nghề nói: “Ngày đầu tiên bước vào ngành SP năm 1982, tôi đã biết là nghề này nghèo và khó khăn. Tôi cố gắng làm việc đến nay đã hơn 29 năm, lương của tôi được 4,8 triệu đồng. Tôi nghe các cấp lãnh đạo hứa nhiều đến... 29 năm rồi nhưng vẫn hy vọng”.
Ông Nguyễn Văn Cải, Phó hiệu trưởng Trường THPT Quang Trung (Củ Chi, TP.HCM), phân tích: “Nguyên nhân để người giỏi ít vào ngành SP là đầu ra bấp bênh hơn so với một số ngành khác. Thứ hai là thu nhập rất khiêm tốn. Trong khi đó, lao động của GV rất vất vả, phải cần mẫn, kỹ lưỡng”. Một GV tiểu học tại huyện Bình Chánh (TP.HCM) cho biết: “Khi ra trường, mức lương của tôi chỉ 1,8 triệu đồng/tháng. Trong khi các bạn mình học khối ngành kinh tế lương 7-8 triệu đồng. Sau 2 năm giảng dạy, tổng lương, phụ cấp hằng tháng chỉ khoảng 3 triệu đồng. Do yêu nghề từ bé nên tôi mới gắn bó với nghề, chứ thực chất cũng rất ngao ngán”.
Hỏi ngẫu nhiên các GV, 100% đều nhận định chính do chế độ đãi ngộ, áp lực nặng nề nên ngày càng ít người chọn SP. Cô giáo 23 tuổi, dạy tại một trường THPT ở Q.8 (TP.HCM), chia sẻ: “Thu nhập của tôi chỉ đủ trang trải tiền nhà trọ, ăn uống, sinh hoạt hằng ngày... Còn khi có việc như: đám cưới, đám giỗ, hay mua đồ dùng trong nhà, học thêm đều phải ngửa tay xin bố mẹ ở quê”. Ngay như cô Sương Mai (Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, TP.HCM) thâm niên 30 năm trong nghề nhưng lương nhận hằng tháng cũng khoảng 5 triệu đồng.

Lương giáo viên Việt Nam quá thấp

Tháng 4.2012, Báo The Guardian (Anh) đưa ra bảng thống kê nước nào chi nhiều tiền nhất cho giáo dục, trong đó có thông tin về mức lương của giáo viên tại các nước. Theo thống kê, Luxembourg là nơi giáo viên nhận được mức lương cao nhất thế giới, với 95.043 USD/năm. Xếp thứ hai là Đức với 55.771 USD/ năm. Tiếp theo là Canada 54.977 USD/năm và Ireland 53.677 USD/năm.

Khu vực châu Á chỉ có Nhật Bản và Hàn Quốc lọt vào bảng xếp hạng này. Giáo viên ở Nhật Bản có lương 44.787 USD/năm (tương đương 3.732 USD/tháng). Hàn Quốc cao hơn với 46.337 USD/năm (3.861 USD/tháng). Trong khi đó, mức lương trung bình của người mới đi dạy tại Việt Nam chỉ khoảng 1.200 USD/năm (hơn 25 triệu đồng).
Đ.Nguyên

Khó tìm việc làm

Tình trạng sinh viên SP ra trường phải vất vả tìm việc, thậm chí thất nghiệp chuyển sang các nghề khác hiện rất phổ biến.
Thạc sĩ Mỵ Giang Sơn, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Sài Gòn, chia sẻ: “Về việc làm thì GV THPT và THCS rất khó xin việc hoặc bị phân về những trường xa, điều kiện làm việc khó khăn. Trước đây các thành phố lớn yêu cầu GV phải có hộ khẩu thành phố, nhưng hiện nay chỉ cần KT3 là được nên sinh viên ngoại tỉnh đổ xô về thành phố xin việc, dẫn đến khủng hoảng thừa GV”.
Ông Nguyễn Văn Ngai, Nguyên Phó giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM, cho biết: “Ngay tại TP.HCM, số lượng đăng ký vào ngành giáo dục đông nhưng tuyển có giới hạn. Lương không cao, ra trường lại chưa chắc có việc làm, dần dà sẽ làm cho ngành này mất sức hấp dẫn đối với những em học sinh”. Còn tiến sĩ Bạch Văn Hợp, Hiệu trưởng Trường ĐH SP TP.HCM, cũng cho rằng hiện nay sinh viên học SP chỉ có lợi là không phải đóng học phí. Còn sau đó thì khi về địa phương, họ không được vào biên chế, xin việc hết sức khó khăn.

Chọn rồi thì... hối hận

Tiến sĩ Bạch Văn Hợp khẳng định: “Một khi đã nghèo thì khó ai có thể toàn tâm toàn ý cho công việc, họ sẽ mất tập trung vì còn phải nghĩ đến cơm áo gạo tiền. Mức lương không đáp ứng cuộc sống tối thiểu dễ khiến người ta chán nản”.
Là một thành viên của nhóm nghiên cứu đề tài cấp nhà nước về đào tạo và bồi dưỡng GV phổ thông, PGS Vũ Trọng Rỹ cho hay: “Tôi đã hỏi hơn 500 GV ở 3 cấp với câu hỏi: Nếu được chọn lại nghề khác thì ông (bà) có chọn nghề dạy học nữa không? Kết quả là số GV không còn muốn làm nghề giáo ở cấp tiểu học là 40,9%, THCS là 59%, và THPT là 52,4%. Thế là có ít nhất một nửa GV hiện nay không muốn làm nghề dạy học nữa. Họ hối hận với lựa chọn nghề giáo. Một bộ phận đáng kể đang chán nghề. Cũng theo kết quả điều tra của đề án nói trên, số GV thực sự yêu nghề, gắn bó với nghề chỉ chiếm khoảng 10 - 20%. Không ít GV ở đô thị khi có điều kiện thuận lợi thì chuyển ngành. Còn theo nghiên cứu tại Khoa Hóa học Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) có 17,8% sinh viên không an tâm với nghề nghiệp.
Nhiều GV cho rằng ngoài lương bổng, điều họ cảm thấy chán nghề là áp lực công việc. Một GV dạy tiểu học dẫn chứng: “Mỗi tháng, chấm không biết bao nhiêu bài kiểm tra, bài tập. Chưa hết, GV còn phải quản lý sổ điểm, sổ đầu bài, sổ liên lạc rồi họp chuyên môn, thao giảng, dự giờ... Chỉ chuyện lời phê vào phiếu liên lạc hằng tuần, chấm bài, vô điểm… của vài chục học sinh cũng đã mất hết thời gian. Có khi phải dành cả thứ bảy, chủ nhật để làm những việc này”.

Ý kiến

“Số lượng học sinh đăng ký dự thi vào ngành SP rất ít. Năm nào tỷ lệ này chiếm chưa đến 1/3 so với các ngành kinh tế, kỹ thuật...”.

Sương Mai (Phụ trách công tác hướng nghiệp Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, TP.HCM)

“Thời gian chuẩn bị làm hồ sơ đăng ký dự thi, chỉ thấy các em bàn tán, hỏi thăm nhau về khối ngành kinh tế, thương mại, kỹ thuật chứ chả mấy em nói với nhau về ngành SP”.

Nguyễn Hoàng Việt
(Hiệu trưởng Trường THPT Phú Nhuận, TP.HCM)

“Trong các buổi hướng nghiệp, nhà trường cũng động viên các em theo ngành SP, đặc biệt là nữ và còn khuyến khích tốt nghiệp quay về trường làm việc nhưng dường như không có tác dụng”.
Lê Văn Linh
(Hiệu trưởng Trường THPT dân lập Thanh Bình, TP.HCM)


Học sinh giỏi chưa mê ngành sư phạm - Kỳ 3: Lo ngại cho tương lai nền giáo dục   Nếu người giỏi, có tâm huyết cứ xa lánh ngành sư phạm, đời sống giáo viên không được quan tâm đúng mức thì giáo dục Việt Nam sẽ nhận hậu quả hết sức nặng nề.

Nhà giáo Nguyễn Quang Kính, thành viên của nhóm nghiên cứu đề tài cấp nhà nước về đào tạo và bồi dưỡng giáo viên (GV) phổ thông, dẫn lời của PGS Bùi Mạnh Hùng, Trường ĐH Sư phạm (SP) TP.HCM: “Nếu một nền giáo dục mà mọi thứ đều hoành tráng, chỉ trừ ông thầy, vốn chỉ là những học sinh phổ thông trung bình, vào nghề với sự bất đắc dĩ, vừa dạy học, vừa bươn chải kiếm sống thì có thể nói một cách quả quyết là nền giáo dục đó không có tương lai”.


Nếu một nền giáo dục mà mọi thứ đều hoành tráng, chỉ trừ ông thầy, vốn chỉ là những học sinh phổ thông trung bình thì có thể nói một cách quả quyết là nền giáo dục đó không có tương lai

PGS BÙI MẠNH HÙNG -
Trường ĐH Sư phạm TP.HCM

“Đáng lo ngại là nền GD-ĐT của chúng ta đang phải đối mặt với thực tế đó”, ông Kính nhấn mạnh.
Thiếu giáo viên giỏi
Tiến sĩ Bạch Văn Hợp, Hiệu trưởng Trường ĐHSP TP.HCM, thừa nhận: “Người giỏi không vào SP cho nên có một thực tế là GV bây giờ không giỏi. Nhất là trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển, trò có thể tìm được mọi thông tin trên mạng, thầy mà tụt hậu sẽ rất ê chề. Trò biết mà thầy không biết thì không thể dạy được. Thầy giỏi trò mới giỏi, thầy tệ trò khó giỏi”.
Theo GS Trần Hồng Quân, Chủ tịch Hiệp hội Các trường ĐH, CĐ ngoài công lập, nền giáo dục của chúng ta đang phải đối mặt với một vấn đề lớn là chất lượng của GV chưa cân đối, các trường SP không tuyển được học sinh giỏi, từ đó tạo ra GV không giỏi.
Chính vì thực trạng này nên mới xảy ra những sự việc đáng tiếc. Chẳng hạn trường hợp học sinh phổ thông phát hiện GV dạy tiếng Anh phát âm sai. Giảng viên dạy toán ở một trường ĐH lớn có ngành SP thì ngậm ngùi cho rằng càng ngày càng ít sinh viên SP học toán có tư duy toán học.
Một người trong ngành giáo dục lâu năm thừa nhận: “Hiện nay khi tuyển GV, tôi thấy năng lực của giáo sinh có vấn đề, thiếu bản lĩnh, không nhìn thấy được cái chất của họ với nghề”. Thạc sĩ Mỵ Giang Sơn, Trưởng phòng Đào tạo ĐH Sài Gòn, khẳng định: “Chất lượng của SV ngành SP cực kỳ quan trọng. Trường ĐH chỉ có thể biến những SV có lực học trung bình lên mức khá hơn một chút, chứ không thể từ trung bình thành xuất sắc. Do đó, đầu vào thấp là một mối lo lớn về chất lượng của những người thầy tương lai”.

Ông Lê Tiến Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học, Bộ GD-ĐT cũng thông tin, trong số 356.000 GV tiểu học hiện nay có khoảng 30% loại khá giỏi, 20% yếu kém.

Giáo dục Việt Nam sẽ về đâu nếu ngày càng ít thầy giỏi, tâm huyết với nghề ? - Ảnh: Đào Ngọc Thạch


 Chỉ là “thợ dạy”
Kết quả khảo sát thực tế ở 8 cơ sở đào tạo GV thuộc Hà Nội, Thái Nguyên, Đà Nẵng, Sơn La, Cần Thơ cho thấy kỹ năng nghề nghiệp ở các sinh viên rất yếu, đặc biệt là các kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt, phối hợp với cha mẹ học sinh và cộng đồng, giải quyết các tình huống SP, lập kế hoạch giáo dục… Sinh viên năm cuối và GV đều có biểu hiện năng lực dạy tốt hơn năng lực giáo dục. Nói nôm na là phẩm chất “thợ dạy” nổi trội hơn “thợ giáo”.
Nói về việc này, một GV tâm sự: “Biết học sinh đó gặp khó khăn về gia cảnh, học tập, hoặc học sinh cá biệt quậy phá… tôi cũng muốn dành thời gian tìm hiểu nhưng thực sự không thể vì thời gian bó hẹp. Tôi còn nhớ, vào những năm 1980, cũng khó khăn trăm bề nhưng phải đặt mục tiêu là mỗi tháng phải đến nhà học sinh một vài lần để nắm tình hình học tập và gia cảnh của các em. Còn giờ đây, hiếm có GV làm được việc này”.
Trong khi ngành GD-ĐT luôn kêu gọi và yêu cầu GV phải đổi mới phương pháp dạy học, lấy người học làm trung tâm thì kết quả nghiên cứu lại cho thấy năng lực tìm hiểu người học là yếu nhất trong các tiêu chí của chuẩn nghề nghiệp GV hiện nay. Một GV tại Q.8 (TP.HCM) cho biết: “Tôi thừa nhận mình thật sự đánh giá không sát năng lực học tập của học sinh. Nhiều khi tôi cũng muốn đọc kỹ từng ý, từng câu nhưng thời gian không cho phép”.

Mất dần vị thế người thầy

Chất lượng GV không tốt còn dẫn đến một hệ quả là chữ lễ không còn thiêng liêng như trước. Thạc sĩ Mỵ Giang Sơn trăn trở: “Típ “thầy ra thầy” có thể ngày nay lại bị coi là lạc hậu. Học trò, phụ huynh ngày càng giảm sự tôn kính với thầy. Thời xưa trò lễ phép với thầy, giờ học sinh ra khỏi trường đã có thể chửi thầy cô, sinh viên vừa tốt nghiệp cũng quay lại trường sẵn sàng khẩu chiến với thầy”. Ông Sơn cũng cho rằng bạo lực học đường tăng mạnh, mối quan hệ thầy trò không còn như xưa đã có tác động vô cùng lớn đối với xã hội. Trước những tiêu cực của môi trường giáo dục, nhiều người có nhiều cái nhìn cực đoan về ngành.

Chính vì vậy, ông Nguyễn Quang Kính đề nghị cần sửa đổi chính sách để khôi phục vị thế của nghề dạy học. Một trong những chính sách đầu tiên cần phải sửa đổi, đó là tiền lương, phụ cấp, trợ cấp của nhà giáo. GS Đinh Quang Báo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu SP Trường ĐH SP Hà Nội, chia sẻ: “Không phải ai sống cũng với mục tiêu phải có thật nhiều tiền. Nhưng việc đảm bảo cho người ta đồng lương đủ sống mới giúp người ta chọn nghề là vì sở trường, vì năng lực chứ không vì đồng tiền”.

Trả lương gắn với kết quả lao động

Trao đổi với Thanh Niên, ông Bùi Sỹ Lợi, Phó chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng, không chỉ xem lại cách trả lương đã đủ sống hay chưa mà còn nên thay đổi cách trả lương theo hướng phù hợp với giá trị lao động bỏ ra, gắn với kết quả lao động. Như hiện nay dù GV dạy tốt hay không thì mức lương “cứ tăng theo thời gian”. Đồng quan điểm, GS Đinh Quang Báo cũng đề nghị chế độ lương phải kích thích được những người trẻ có năng lực, có cố gắng. Cách trả lương hiện nay khiến người giỏi cũng như người kém, sống lâu lên lão làng. Nhiều GV trẻ rất giỏi nhưng vẫn phải "leo từ từ".

Một số nước áp dụng giấy phép hành nghề, tốt nghiệp ĐHSP không có nghĩa là được đi dạy ngay mà phải vượt qua một kỳ sát hạch. Giấy phép hành nghề cũng có thời hạn, chẳng hạn cứ 5 năm phải đổi một lần. Ngay cả khi GV có khả năng vượt trội, được hưởng một mức lương tương xứng với khả năng đó cũng không có nghĩa là sẽ được hưởng mãi mãi. Nếu không cố gắng, thậm chí còn thụt lùi, sẽ phải quay về với mức lương thấp hơn - GS Báo đề xuất.

Tuệ Nguyễn

Học sinh giỏi chưa mê ngành sư phạm - Kỳ 4: Nghề đặc biệt phải có chính sách đặc thù

Cần phải có những thay đổi sâu rộng từ quan điểm đến chính sách về đội ngũ nhà giáo thì mới mong quá trình đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục thành công.

Chính lãnh đạo ngành GD-ĐT cũng xác định đội ngũ giáo viên (GV) quyết định sự thành bại trong công cuộc đổi mới giáo dục.


Giáo viên được trao giấy nhận nhiệm sở tại Sở GD-ĐT TP.HCM - Ảnh: Đào Ngọc Thạch

Phải giải quyết căn cơ vấn đề GV
Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đặc biệt lo ngại khi cho rằng mặc dù vai trò của người thầy là căn cứ quan trọng để hoạch định chiến lược phát triển giáo dục nhưng cho đến nay, vấn đề GV chưa một lần được giải quyết căn cơ, thấu đáo khiến cho tất cả những mong muốn đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục ở nhà trường đều không thực hiện đến nơi đến chốn.
Bà Nguyễn Thị Bình nhận định: Theo các kết quả điều tra mới nhất, một tỷ lệ khá lớn GV phổ thông không đủ sức đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục hiện hành. Sắp tới đây, chất lượng GV mới vào nghề còn thấp hơn nữa vì phần lớn sinh viên đang học tại các trường sư phạm (SP) và các cơ sở đào tạo của các trường SP vốn chỉ là những học sinh phổ thông trung bình mà nội dung phương pháp đào tạo thì quá lạc hậu. “Tình trạng vừa thừa vừa thiếu GV tồn tại dai dẳng hàng chục năm qua không giải quyết được cũng khiến cho công tác đào tạo và sử dụng GV gặp không ít khó khăn”, bà Bình nói.
Bản thân Bộ GD-ĐT cũng đã thừa nhận thực tế này. Đổi mới phương pháp dạy và học cùng với quá trình đổi mới chương trình - sách giáo khoa do Bộ phát động từ nhiều năm nay không có chuyển biến đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực của GV chưa đáp ứng được yêu cầu.

Trong Chương trình phát triển ngành SP từ năm 2011 - 2020, Bộ đã thừa nhận những hạn chế, yếu kém của ngành SP hiện nay. Văn bản này có đoạn: “Các địa phương và cả nước đều chưa có quy hoạch mạng lưới các trường SP và quy hoạch đội ngũ GV; quá trình đào tạo chưa dựa trên nhu cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu chuyên môn đội ngũ GV và những đổi mới của giáo dục phổ thông và mầm non”.

Thực tế này đã chỉ ra một nghịch lý đáng buồn: Chính Bộ nhiều năm nay hô hào việc đào tạo phải gắn với nhu cầu sử dụng nhưng lại chưa thực hiện được trong chính lĩnh vực của mình. Với tư cách vừa là cơ quan sử dụng lao động đối với đội ngũ GV vừa quản lý các trường đào tạo GV, nghĩa là “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, vậy mà vẫn tình trạng giáo sinh ra trường không tìm được việc làm, phải làm đủ mọi nghề “tay trái” để kiếm sống. Điều này là bằng chứng hiển hiện khiến các trường SP ngày càng mất dần sức hút với học sinh khá giỏi.

Thay đổi cách tuyển sinh, tuyển dụng

Cần phải tập trung sửa đổi chính sách đối với nhà giáo. Làm cho GV đáp ứng yêu cầu về phẩm chất, năng lực và có thu nhập từ lương và phụ cấp cao hơn mức thu nhập trung bình trong xã hội; đồng thời làm cho nghề dạy học được xã hội thực sự coi trọng và có sức hút đối với học sinh khá, giỏi

Nguyên Phó chủ tịch nước NGUYỄN THỊ BÌNH

Lâu nay, dư luận vẫn nói “nghề GV là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Thế nhưng từ việc tuyển sinh đầu vào của trường SP đến tuyển dụng GV lại không hề có một đặc thù nào để chọn được người xứng đáng vào làm “nghề cao quý nhất…” này.

Ngành giáo dục là cơ quan sử dụng GV nhưng việc tuyển dụng đội ngũ này ra sao lại phụ thuộc vào quy định của Bộ Nội vụ. Chẳng hạn khi đề cập tới chất lượng GV dạy môn lịch sử thấp, một nhà giáo đã nói: “Tuyển dụng GV dạy lịch sử mà như tuyển một công chức bình thường, không có chuyên gia nào về lịch sử ở hội đồng tuyển dụng đó thì làm sao có thể tuyển được người giỏi”.

Trao đổi với Thanh Niên về vấn đề này, ông Nguyễn Vinh Hiển, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT, cũng chia sẻ: “Từ tuyển dụng đến bình xét, đánh giá GV, dù có rất nhiều đặc thù riêng nhưng hiện vẫn phải theo quy định của ngành nội vụ. Chính vì vậy, ngành GD-ĐT rất khó đưa các yếu tố đặc thù vào, nên hiệu quả sử dụng và quản lý con người trong chính ngành của mình bị hạn chế”. Ông Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên - Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, cũng nhận định: “Việc tuyển dụng người lao động của chúng ta lâu nay mang tính hình thức nhiều quá mà rất ít các yêu cầu để đánh giá năng lực chuyên môn của người được tuyển chọn. Tôi cho rằng, nếu chỉ nhìn vào bằng cấp rồi cho thi tuyển như hiện nay, có khả năng tới quá nửa kết quả tuyển dụng sai”.

Lương phải cao nhất trong ngành sự nghiệp

Theo điều tra mới nhất của Bộ Nội vụ, hơn 98% ý kiến cho rằng mức lương tối thiểu chỉ đáp ứng 30 - 40% nhu cầu tối thiểu của cán bộ công chức, viên chức (trong đó GV chiếm số lượng lớn). Do đó, rất khó thu hút được người có tài năng vào làm việc. Bên cạnh đó, mức lương thấp không duy trì nghiêm được tính kỷ luật, thứ bậc và không tạo được tính cạnh tranh.

Để việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục sắp tới không chỉ là việc làm nửa vời, bà Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh: “Cần phải tập trung sửa đổi chính sách đối với nhà giáo và cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng GV. Làm cho GV đáp ứng yêu cầu về phẩm chất, năng lực và có thu nhập từ lương và phụ cấp cao hơn mức thu nhập trung bình trong xã hội; đồng thời làm cho nghề dạy học trở thành một trong những lĩnh vực nghề nghiệp được xã hội thực sự coi trọng và có sức hút đối với học sinh khá, giỏi”.

Nghị quyết T.Ư 2 khóa 8 (năm 1996) đã đề ra mục tiêu, lương GV phải cao nhất trong thang bảng lương của khối hành chính sự nghiệp. Tuy nhiên, 16 năm nay, điều này vẫn chưa đi vào thực tế. Thậm chí, theo kết quả thống kê của Viện Khoa học lao động và xã hội trong bảng lương công chức, thấp nhất là lương của các GV mới vào nghề, có người chưa đến 2 triệu đồng.

Ông Nguyễn Vinh Hiển cho hay: “Nếu thực hiện được Nghị quyết T.Ư 2, khóa 8, cộng với phụ cấp đứng lớp, phụ cấp thâm niên thì đồng lương của GV cũng đã cải thiện được hơn nhiều so với hiện nay. Bên cạnh đó, phải thay đổi cách thức trả lương GV theo chất lượng, hiệu quả của công việc”. Ông Hiển cũng cho biết, đổi mới căn bản toàn diện GD-ĐT có nhiều vấn đề quan trọng nhưng Bộ cũng quan niệm chất lượng đội ngũ GV phải được xem là giải pháp cốt lõi, quan trọng nhất, vì chính đội ngũ này quyết định sự thành bại của việc đổi mới.

Tuệ Nguyễn

Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2012

Trao đổi thêm về giáo dục với bà Nguyễn Thị Bình

Trao đổi thêm về giáo dục với bà Nguyễn Thị Bình


- Báo Vietnamnet ngày 04/10 giới thiệu bài phỏng vấn với Nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình về giáo dục. Rất nhiều ý của bà Bình tôi nhất trí, nhưng có một số ý tôi không đồng tình, xin được thẳng thắn trao đổi.
Lương giáo viên phải cao nhất trong các ngành sự nghiệp
Lương bổng - biết thế nào là vừa?
Tin vui thu nhập cho nhà giáo đã nghỉ hưu

1. Tôi hoàn toàn không đồng ý khi bà Bình cho rằng “Trở ngại lớn nhất trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên phổ thông là thầy, cô giáo ở các trường phổ thông công lập gần như không còn động lực hoạt động nghề nghiệp vì thu nhập từ lương và phụ cấp do Nhà nước trả không đủ bảo đảm cho họ có cuộc sống tươm tất.”
Là giáo viên nên tôi hiểu rõ vấn đề này. Cái làm cho giáo viên không còn động lực hoạt động nghề nghiệp không phải vì lương thấp mà do cơ chế hay cách thức trả lương . Một giáo sinh học nghề sư phạm, ra trường hễ được vào biên chế nhà nước là yên tâm. Dạy giỏi, dạy dốt ư? Chẳng sao. Ai đuổi được mà sợ. Cứ “tà tà”. Lương tháng cứ “đến hẹn lại lên ” mà. Một cơ chế trả lương hoàn toàn không đúng với nguyên lý “làm theo năng lực hưởng theo lao động”, không gắn tiền công với sản phẩm do người lao động tạo ra ( với nghề giáo là chất lượng giáo dục học sinh ) thì làm sao đồng lương có thể trở thành động lực phấn đấu nâng cao ý thức trách nhiệm cũng như năng lực công tác của người lao động được.
2. “ Để tự cứu mình, nhiều giáo viên trường công ở các đô thị phải dạy thêm, dẫn đến dạy thêm tràn lan.” "Vấn đề dạy thêm học thêm hiện nay khó chống, nguyên nhân là người giáo viên phải làm thêm để có thu nhập đảm bảo đời sống. Vì vậy, dạy thêm rất khó cấm, và thực tế hiện nay là vẫn không thể chống được. Nếu giải quyết thỏa đáng đãi ngộ, lương bổng để giáo viên và gia đình có cuộc sống tươm tất, đàng hoàng thì theo tôi, không cần cấm đoán, giáo viên cũng sẽ không dạy thêm nữa”. Hoàn toàn sai.
Xin thưa với nguyên Phó Chủ tịch nước, có phải giáo viên nào cũng thích mà được dạy thêm đâu? Chỉ có giáo viên một vài môn chính thôi. Nhiều giáo viên không phải “dạy để có thu nhập đảm bảo đời sông” mà họ đã rất giàu rồi. Giàu rồi nhưng vẫn không bỏ dạy thêm vì trong thời buổi kinh tế này có ai không thích giàu thêm nữa? Nguyên nhân dạy thêm, học thêm ở chỗ khác chứ không phải chỗ thu nhập của giáo viên thấp đâu.
3.Tôi cũng không đồng ý “thâm niên là đặc thù của nghề giáo, càng làm lâu trong nghề càng phải khuyến khích”.
Theo tôi, gần đây nhà nước khôi phục lại thâm niên cho nghề giáo là không hay. Bởi lối trả phụ cấp theo kiểu “sống lâu lên lão làng” này chỉ tổ triệt tiêu “động lực hoạt động nghề nghiệp” mà thôi. Nghề nào cũng vậy, có người cả đời làm nghề nhưng cũng không có tay nghề giỏi song cũng có người chỉ trong một thời gian ngắn “tuổi trẻ tài cao”, có thể đạt đỉnh cao trong nghê nghiệp.
Thiết nghĩ, phụ cấp thâm niên chỉ nên dành cho những nghề mà không ai muốn làm lâu vì môi trường làm việc độc hại hoặc nguy hiểm (như thợ mỏ chẳng hạn), hoặc những khu vực khó khăn (vùng sâu vùng xa, hải đảo…) mà không ai muốn ở lâu thì mới đúng.
4. Tôi cũng đồng ý, nghề dạy học nhưng chỉ là ở phổ thông phải là nghề được trả lương cao vào bậc nhất trong xã hội. Vì đây là nghề “cáo quí nhất trong các nghề cao quí”, nghề dạy người (chứ không phải dạy nghề). Phải trả lương, phải đãi ngộ làm sao để ngành sư phạm thu hút được những người tài giỏi nhất của xã hội vào học tập, rèn luyện để rồi họ trở thành những người thầy, những con người mẫu mực là “mô phạm” cho các thế hệ người Việt Nam.
•Nhà giáo Xuân Quảng

Những ý kiến chia sẻ

lương giáo viên


Theo tôi, để khuyến khích chất lượng giáo dục, ngoài những vấn đề đã nêu trên còn phải chú ý đến chất lượng đầu vào các trường đào tạo, cơ chế đào tạo và quan trọng hơn nữa để chắt lọc chúng ta nên tổ chức thi tuyển công chức,viên chức. Ra trường với sinh viên sư phạm hiện nay là một quá trình quá khó khăn khi họ phải bỏ ra cả một khoản tiền lớn để "mua" việc. Vậy sau khi vào rồi họ phải nghĩ đến việc hoàn lại vốn đã xin việc cho gia đình,chuyên môn có đc xem xét nhưng ko tận tình như lúc họ vô tư xin đc việc như cơ chế trước đây.Phải cho họ sống bằng chính nghề của họ

hoa nguyen Gửi lúc 05/10/2012 12:38   Không thể có nhiều giáo viên giỏi

Người giỏi có ít, giáo viên cần nhiều (vì đông học sinh) suy ra không thể có nhiều giáo viên giỏi. Không thể có đủ giáo viên giỏi để dạy tất cả số đông học sinh. Trước đây chỉ 5-10% đi học thì việc "thày giỏi, trò ngoan" là có thể. Bây giờ mà vẫn muốn như ngày xưa thì chỉ là duy ý chí thôi. Với giáo viên không thể không chú ý đến thâm niên, theo kinh nghiệm cá nhân tôi thì phải mất 10 năm một giáo viên có năng lực mới thành giáo viên giỏi được. Tất nhiên không phải cứ lâu năm mà giỏi được. Với lại phụ cấp thâm niên chỉ là một khoản "đông viên" thôi mà.

NT Dat Gửi lúc 05/10/2012 12:36   Đồng tình

Đã từng la một giáo viên trong 7 năm . tôi hiểu được nhiều vấn đè và khó khăn của giáo viên , tôi cũng trăn trở và suy nghĩ nhiều về giáo dục . Tôi đồng tình với quan điểm của nhà giáo Xuân Quảng. Nhưng không đồng ý với ý kiến phụ cấp thâm niên cho giáo viên là " không hay " vì thưa thầy Quảng nhà giáo đổ dồn tâm huyết và trằn trọc cho sự nghiệp trồng người lắm! Đó chỉ là sự ghi nhận về tâm huyết và sự cống hiến của mỗi đời người giáo viên thôi . nhưng tôi hoàn toàn đồng tình với những phát biểu của phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình lương giáo viên phải cao nhất trong những nghề sự nghiệp hành chính. Vì " nghề giáo viên là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý " cơ mà !? "Nhân tài nguyên khí của quốc gia " vậy nhân tài từ đâu mà ra ? Cũng do dạy dỗ và giáo dục cả !

Lê Minh Đức Gửi lúc 05/10/2012 12:23   ý kiến sao cho đúng

Kính gửi nhà giáo XUÂN QUẢNG ! Nhà giáo cho rằng bà BÌNH nói sai về phần dạy thêm mà không nói nguyên nhân. Tôi đã từng sống ở miền Nam trước giải phóng. Tôi thấy lương nhà giáo thời bấy giờ vừa đủ đảm bảo cuộc sống nên hiện tượng dạy thêm cũng có nhưng rất ít, và tiền học phí thu dạy thêm cũng không quá cao. Còn ông cho rằng tính thâm niên nhà giáo vừa qua là không đúng, theo tôi chưa chắc. Ở cơ quan tôi một số anh mới vào làm lương đã bằng người mười mấy năm trong nghề. và rất nhiều anh cũng thỏa mãn không học tâp, phấn đấu chi cả. Có học là học thêm những ngành khác chuyên môn đang làm để chuyển chỗ khác lương cao hơn. Nói chung ông đừng nên xem thường thâm niên và kinh nghiệm nhé! kính chào ông

TRƯƠNG QUANG LIÊM Gửi lúc 05/10/2012 12:12

Giáo viên sống chật vật để bám lớp, bám trường


Ảnh: PLTPHCM


Giáo viên sống chật vật để bám lớp, bám trường

Thứ tư 03/10/2012 05:45Theo phân tích của bộ phận chuyên ngành thuộc bộ phận kế hoạch tài chính Sở GDĐT TPHCM thì thang, bậc lương của giáo viên trong hệ thống giáo dục phổ thông hiện nay đang ở vị trí rất “khiêm nhường”. Đặc biệt là giáo viên tiểu học, mức lương nhà nước của đối tượng này có một khoảng cách khá xa so với thang bậc của 24 chức danh khác của viên chức loại B.
Cụ thể hơn, trong 53 chức danh xếp chung, bậc lương của giáo viên THPT đứng hàng cuối cùng. Không chỉ thế, hệ số chênh lệch trong lương giữa các bậc của giáo viên cũng rất nhỏ trong khi số thâm niên để giáo viên được hưởng vượt khung lại quá dài. Có thể đơn cử con số quy định vượt khung của giáo viên bậc tiểu học là minh chứng: Muốn hưởng mức lương vượt khung, giáo viên tiểu học phải có thâm niên công tác trong khoảng 10 – 15 năm. Không chỉ thế, mức lương khởi điểm của giáo viên cũng rất thấp, cụ thể chỉ khoảng 2,5 triệu đồng/tháng. Còn với những giáo viên có thâm niên từ 15 năm trở lên mới có thu nhập vào khoảng 3,5 triệu đồng/tháng.
Phân tích cụ thể hơn từ “người thật việc thật” ở trường hợp của cô Nguyễn Phương Khanh – giáo viên Trường Tiểu học Phú Thạnh – Nhơn Trạch (Đồng Nai) cho biết: Với thâm niên trong nghiệp “gõ đầu trẻ” gần 23 năm, hiện mức lương nhà nước mà cô giáo Khanh được hưởng ở mức 3.843.000 đồng/tháng. Đó là chưa trừ một số khoản như bảo hiểm xã hội (chiếm 10% mức lương) và tiền bảo hiểm y tế cô phải tự đóng mỗi năm một lần. Ngoài mức lương chính như trên, cộng các khoản phụ thu khác, thu nhập mỗi tháng của cô đạt chưa đầy 5,1 triệu. Cô Phương Khanh cho biết thêm: Với mức thu nhập này, gia đình đang có con độ tuổi đi học như cô phải thật sự tằn tiện mới có thể “đắp đổi” qua ngày và không thể có khoản phòng thân trong những lúc đau yếu hoặc những tình huống đột xuất khác.
Cô Triệu Thị Huệ - GV Trường chuyên Lê Hồng Phong thì tâm sự: "Với thâm niên gần 30 năm trong nghề cộng thêm đủ các khoản hỗ trợ từ công đoàn trường và cả phụ cấp trách nhiệm khi giữ vị trí tổ trưởng tổ văn Trường chuyên Lê Hồng Phong, mức thu nhập của tôi cũng chỉ tròm trèm 6,5 triệu đồng.
Thú thực, theo tôi biết mức thu nhập này đã là cao so với nhiều đồng nghiệp ở những trường khác cũng như các địa bàn còn khó khăn khác. Tuy nhiên, nếu xét vấn đề một cách sát thực, cụ thể và mang tính logic hơn thì thu nhập này hoàn toàn không đủ chi tiêu cho một gia đình công chức, có hai con đang độ tuổi đi học, nhất là khi sống tại một địa phương có mức sinh hoạt thuộc hàng đắt đỏ nhất nhì hiện nay như TPHCM. Nếu không “cày thêm” thì không thể sống nổi. Song nếu không biết “điều tiết”, cân đối giữa việc làm chính và làm thêm thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe, như dân gian ta vẫn có câu nghề giáo chính là nghề “bán cháo phổi” đó thôi.
Sống với nghiệp “gõ đầu trẻ”, vắt kiệt sức với nghề là lao lực ngay. Nếu chủ quan nhận định, tôi cho rằng nghề giáo là một nghề nặng nhọc chứ không hề nhàn hạ, thanh thản như hình ảnh chiếc áo dài đồng phục của nhiều giáo viên. Nghề này rất cần một chế độ đãi ngộ hợp lý. Bởi nhìn vấn đề một cách rộng hơn, vấn đề thu nhập chế độ đãi ngộ cho giáo viên chính là cốt lõi của chất lượng giáo dục. So sánh một cách nôm na, nếu muốn tạo ra những sản phẩm tốt (những thế hệ HS có kiến thức và nhân cách tốt) thì chính người thợ (đội ngũ giáo viên) phải có một đời sống, một sức khỏe ổn định ở mức chấp nhận được so với mặt bằng chung của xã hội. Có như thế, họ mới có tâm huyết và cả sức lực để cống hiến cho nghiệp “trồng người” còn nếu không sẽ phải chấp nhận một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ giáo viên sẽ mãi mãi dừng ở mức là những người “thợ dạy”…

Chia sẻ

M.Hương75@gmail.com - 04/10/2012 16:52

Ở đây Tôi mới thấy bàn đến mức lương của giáo viên phổ thông, nhưng còn hệ thống giáo viên dạy nghề thì chưa thấy đề cập tới, Tôi thấy giáo viên dạy nghề, kể cả bậc trung cấp đến cao đẳng đều vẫn theo thang bậc lương của giáo viên phổ thông, nhưng mọi người không biết đến là: giáo viên dạy nghề trong các trường kể cả trường công lập không có lương hoặc có lương thì mức lương còn thấp hơn cả mức lương tối thiểu của nhà nước quy định, nếu mọi người không tin thì hãy hỏi Trường trung cấp nghề công trình 1 thuộc Tổng công ty XDCTGTI, đội ngũ giáo viên ở đây 9 tháng rồi không có lương, mỗi tháng bình quân chỉ được ứng có ... 500.000đ, hỏi ai có tin không?

Lương giáo viên phải cao nhất trong các ngành sự nghiệp


Nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình.


Lương giáo viên phải cao nhất trong các ngành sự nghiệp

Thứ tư 03/10/2012 06:26"Tiền lương là thể hiện sự đối xử với thầy, cô giáo" - nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình chia sẻ với Lao Động.
Trao đổi với Lao Động, nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình cho rằng, vai trò của người thầy là căn cứ quan trọng để hoạch định chiến lược phát triển giáo dục, nhưng cho đến nay, vấn đề giáo viên chưa một lần được giải quyết căn cơ, khiến cho tất cả những mong muốn đổi mới giáo dục đều không thực hiện được đến nơi đến chốn.

-  Trở ngại lớn nhất trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên phổ thông là thầy, cô giáo ở các trường phổ thông công lập gần như không còn động lực hoạt động nghề nghiệp vì thu nhập từ lương và phụ cấp do Nhà nước trả không đủ bảo đảm cho họ có cuộc sống tươm tất. Để tự cứu mình, nhiều giáo viên trường công ở các đô thị phải “dạy thêm”, dẫn đến dạy thêm tràn lan.
Trong khi đó, tình trạng xuống cấp về đạo đức và văn hóa trong xã hội gây nhiều tác động tiêu cực đến trường học mà ngay cả giáo viên cũng bị lây nhiễm. Do vậy, vị thế xã hội của nghề làm thầy lẫn người thầy bị hạ thấp trong thang giá trị xã hội.
Nếu đặt vấn đề tăng lương cho giáo viên, theo bà, tăng đến mức nào là phù hợp?
- Trong các kiến nghị, chúng tôi có nhấn mạnh vào việc sửa đổi chính sách lương, phụ cấp, đồng thời cải thiện điều kiện nghề nghiệp, đãi ngộ, mức sống đáp ứng được yêu cầu của nhà giáo và gia đình họ. Mức sống này phải được xác định là trên mức trung bình của xã hội.
Về thu nhập cụ thể, theo tôi, những nước khác làm được thì ta cũng phải làm được. Như ở Phần Lan, giáo viên là nghề có thu nhập cao, Hàn Quốc cũng xác định thu nhập của nhà giáo ở mức cao...
Gần đây, Nhà nước đã cố gắng tăng thêm 30% phụ cấp cho giáo viên đứng lớp. Có thể chưa được như mong muốn, nhưng so với lương của hệ thống viên chức nhà nước nói chung là khá cao. Nếu tiếp tục đặt vấn đề tăng lương giáo viên, thì như thế nào là hợp lý, thưa bà?
- Có thời kỳ Nhà nước ta đã nêu ra vấn đề lương giáo viên phải cao nhất trong các ngành sự nghiệp. Như vậy, theo tôi, đã có lúc chúng ta thấy được vấn đề nhưng không thống nhất được quan điểm và sự thực là chưa giải quyết vấn đề. Muốn vị thế trong xã hội của thầy, cô giáo cao lên, muốn thầy, cô giáo gắn bó với nghề, muốn thu hút người giỏi làm nghề dạy học, thì phải trả lương cao cho thầy, cô giáo. Tiền lương là thể hiện sự đối xử với thầy, cô giáo.
Bây giờ nhiều thầy không gắn bó với nghề. Học sinh khá, giỏi không muốn vào học sư phạm. Như thế thì giáo dục làm sao có chất lượng? Cái gốc vấn đề là ở đấy!
Hơn nữa, vấn đề đổi mới, hay cải cách giáo dục không chỉ tốt cho nhà trường mà sẽ nâng cao được cả văn hóa, đạo đức xã hội. Người giáo viên tốt thì con em chúng ta sẽ tốt hơn, xã hội tốt hơn.
Đã từng có ý kiến cho rằng nên có quỹ hỗ trợ dành cho giáo viên, huy động nguồn lực từ các tổ chức xã hội, các công ty, tập đoàn… Theo bà, vấn đề xã hội hóa trong việc tăng thu nhập cho giáo viên nên được nhìn nhận như thế nào?
- Xã hội hóa giáo dục trong giai đoạn này là chủ trương đúng. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh, đối với việc học tập của con em chúng ta, Nhà nước phải chịu trách nhiệm. Nhà nước có thể lo bằng nhiều cách, trong đó có biện pháp xã hội hóa, nhưng bằng cách gì thì Nhà nước vẫn phải đảm bảo, vẫn phải chịu trách nhiệm.
Có nên đặt ra vấn đề phân cấp giáo viên để phân cấp thu nhập hay không, thưa bà? Giáo viên giỏi, dù trẻ, nhưng phải có thu nhập cao hơn giáo viên bình thường khác?

Nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình tặng thưởng cho sinh viên ĐH Phan Châu Trinh.

- Ở đây có hai vấn đề. Thứ nhất, thâm niên là đặc thù của nghề giáo, càng làm lâu trong nghề càng phải khuyến khích. Còn đối với người giỏi, ở đây phải đặt ra vấn đề bồi dưỡng thường xuyên nâng cao trình độ. Trình độ đến đâu đãi ngộ đến đó. Nhóm nghiên cứu chúng tôi đề xuất toàn bộ giáo viên phổ thông phải có trình độ từ đại học trở lên. Phải nâng trình độ giáo viên lên và xóa bỏ ngay quan điểm lạc hậu lớp thấp chỉ cần trình độ thấp.
Đối với khoa học giáo dục hiện đại, những năm đầu của trẻ là giai đoạn hình thành nhân cách, tư duy. Vì vậy, bậc học càng thấp càng đòi hỏi ở người giáo viên nhiều hơn.
Theo bà, với tình trạng dạy thêm học thêm tràn lan như hiện nay, tăng lương có giải quyết được tình hình?
- Vấn đề dạy thêm học thêm hiện nay khó chống, nguyên nhân là người giáo viên phải làm thêm để có thu nhập đảm bảo đời sống. Vì vậy, dạy thêm rất khó cấm, và thực tế hiện nay là vẫn không thể chống được. Nếu giải quyết thỏa đáng đãi ngộ, lương bổng để giáo viên và gia đình có cuộc sống tươm tất, đàng hoàng thì theo tôi, không cần cấm đoán, giáo viên cũng sẽ không dạy thêm nữa.
Lực lượng giáo viên hiện nay đông, nguồn lực quốc gia có hạn. Vậy một lộ trình tăng lương sẽ như thế nào để cân đối, trong mối tương quan với bảng lương của các ngành nghề khác?
- Trước mắt hãy cứ thực hiện công bằng, tính đủ lao động cho người thầy. Công chức, viên chức làm việc 8h/ngày. Người thầy ngoài giờ lên lớp còn phải chấm bài, soạn giáo án... Ở các thành phố lớn, giáo viên không chỉ dạy một lớp 35 học sinh như quy định, mà số lượng học sinh phải phụ trách có khi lên tới 50 - 60 em. Vậy hãy tính đủ sức lao động cho họ. Chưa cần nói gì đến việc ưu ái hơn nhưng trước mắt cứ tính cho công bằng đã. Cũng cần thiết phải cải cách quản lý, phải làm sao để người giáo viên làm việc có mức độ vì họ còn gia đình, cuộc sống riêng.
Hãy làm tốt những vấn đề Nhà nước đã đặt ra như thâm niên, phụ cấp dạy thêm giờ, sĩ số lớp... Rồi sau đó hãy đặt tới vấn đề đưa lương của giáo viên đứng đầu trong bảng lương sự nghiệp.
Nhân dịp Đảng đang thực hiện việc thi hành Nghị quyết IV T.Ư khóa XI sẽ bàn về đổi mới trong giáo dục, bà có kỳ vọng gì vào cuộc họp lần này?
- Thật sự tôi muốn một cuộc “cải cách”, chứ không chỉ dừng ở “đổi mới” trong giáo dục. Tôi hy vọng những người lãnh đạo ngành có quan điểm, nhận thức đúng mức, quyết tâm thực hiện những điều mình nêu ra. Tất nhiên, không thể một lúc mà đề ra hết được mọi vấn đề. Nhưng tôi mong rằng, với mục tiêu đã có, với quan điểm đúng, kỳ họp sẽ chỉ ra được những giải pháp quan trọng nhất trong công cuộc đổi mới, trong đó có vấn đề người thầy.
- Xin cảm ơn bà!
Theo laodong.com.vn

Đề tài khoa học cấp nhà nước “Các giải pháp cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng GV phổ thông” do nguyên Phó chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm đã đặt ra nhiều vấn đề nếu muốn nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Nhóm nghiên cứu khảo sát thu nhập của GV qua bảng lương cho thấy: Thu nhập bình quân từ lương và các phụ cấp theo lương trong khoảng từ 3 - 3,5 triệu đồng/tháng.
Tính theo năm công tác thì lương GV sau 13 năm từ 3 - 3,5 triệu đồng/tháng, sau 25 năm từ 4,1 - 4,7 triệu đồng/tháng. GV mới ra trường ở cả 3 cấp học nhận mức lương trên dưới 2 triệu đồng/tháng. Với số lượng GV như hiện nay, chỉ khoảng 50% số GV các cấp có thâm niên dạy học từ 13 năm trở lên và được hưởng mức lương bình quân, 50% còn lại được hưởng dưới mức lương bình quân.
Từ đó cho thấy, thu nhập từ lương và phụ cấp theo lương cho GV phổ thông không đảm bảo đáp ứng nhu cầu cơ bản về đời sống của bản thân và gia đình họ, nhất là ở các vùng đô thị. Khoảng trên 40% không muốn làm nghề sư phạm nếu được chọn lại ngành nghề vì lương quá thấp.

M.Huong75@gmail.com - 04/10/2012 16:38


Cám ơn Bà bình đã có những suy nghĩ cho đời sống giáo viên, quả thực thu nhập chính đáng của giáo viên cho đến hiện nay so với mức thu nhập chung của xã hội là thấp, cho nên tăng lương cho giáo viên tôi hoàn toàn đồng tình, nhưng mặt khác tăng lương thì phải tăng chất lượng giảng dạy, dạy tốt lương cao là điều hiển nhiên, nhưng muốn có giáo viên dạy giỏi thì ngay từ khâu đầu vào, sinh viên học ngành sư phạm phải là học sinh giỏi đã, mặt đạo dức xã hội hình thể nhân văn... phải là những người tốt, có như vậy thì mới có giáo viên giỏi và đủ tư cách, mặt khác ở khâu tuyển dụng, phải thật sự công bằng, công khai, minh bạch và đúng đối tượng. hiện nay tiêu cực trong tuyển dụng vẫn còn là vấn nạn và vấn nạn này làm thui chột cả một nền giáo dục. Đấy là mới nói đến đội ngũ giáo viên, còn đội ngũ cán bộ quản lý của ngành giáo dục thì sao, đội ngũ quản lý tồi thì giáo dục cũng sẽ tồi./.